Lịch sử Phổ_điện_từ

Trong lịch sử, ánh sáng chỉ được biết đến là một phần của phổ điện từ. Người Hy Lạp cổ đại công nhận ánh sáng truyền theo đường thẳng và nghiên cứu một số thuộc tính của nó, bao gồm cả phản xạ và khúc xạ. Qua nhiều năm nghiên cứu liên tục về ánh sáng và trong thế kỷ 16, 17 đã có những lý thuyết mâu thuẫn coi ánh sáng có tính chất sóng hay hạt. Ánh sáng lần đầu tiên được liên kết với điện từ vào năm 1845 khi Michael Faraday nhận thấy ánh sáng phản ứng với từ trường. Phát hiện đầu tiên về tính chất sóng điện từ của ánh sáng là vào năm 1800, khi William Herschel phát hiện ra ánh sáng hồng ngoại. Ông đã nghiên cứu nhiệt độ màu sắc khác nhau bằng cách di chuyển một nhiệt kế qua ánh sáng bị chia qua một lăng kính. Ông nhận thấy rằng nhiệt độ cao nhất là khi vượt quá màu đỏ. Ông đưa ra giả thuyết có 'ánh sáng' mà mắt người không thể nhìn thấy. Năm 1801, Johann Ritter nghiên cứu ở phía đầu kia của quang phổ và thấy rằng có 'các tia hóa học' cũng có hành vi tương tự, nhưng xa hơn nữa, tia sáng có thể nhìn thấy màu cực tím. Sau đó họ đổi tên thành bức xạ cực tím. Trong thập niên 1860 James Maxwell nghiên cứu trường điện từ và phát hiện chúng truyền ở gần vận tốc ánh sáng. Ông đã đưa ra 4 phương trình vi phân để giải thích mối tương quan này. Những phương trình này dự đoán nhiều tần số của sóng điện từ truyền với vận tốc ánh sáng. Để chứng minh các phương trình của Maxwell, năm 1886 Heinrich Hertz đã chế tạo một cỗ máy để tạo và phát hiện sóng vô tuyến. Ông có thể quan sát thấy chúng truyền ở vận tốc ánh sáng và có thể bị phản xạ và khúc xạ. Trong một thí nghiệm sau đó, ông đã tạo ra và đo được vi sóng. Những sóng mới này đã mở đường cho các phát minh như điện báo không dâyvô tuyến. Năm 1895 Wilhelm Röntgen phát hiện một loại bức xạ mới khi đang làm một thí nghiệm. Ông gọi đó tia X và nhận thấy chúng có thể truyền xuyên qua cơ thể người, nhưng lại bị các vật chất đặc phản xạ, ví dụ như xương. Sau này tia X được ứng dụng rất nhiều trong lĩnh vực y học. Phần cuối cùng của phổ điện từ được điền đầy với việc phát hiện ra tia gamma. Năm 1900 Paul Villard nghiên cứu phóng xạ. Đầu tiên ông nghĩ rằng chúng là các hạt tương tự như các hạt alpha và beta. Tuy nhiên, năm 1910 Ernest Rutherford đo bước sóng của chúng và thấy rằng chúng là sóng điện từ.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Phổ_điện_từ http://www.acma.gov.au/webwr/radcomm/frequency_pla... http://www.ic.gc.ca/epic/site/smt-gst.nsf/vwapj/sp... http://books.google.com/?id=b519e10OPT0C&pg=PA58&d... http://books.google.com/books?id=n0RMHUQUUY4C http://hypertextbook.com/physics/electricity/em-sp... http://www.indiadaily.com/editorial/1803.asp http://unihedron.com/projects/spectrum/downloads/s... http://www.unwantedemissions.com http://hyperphysics.phy-astr.gsu.edu/hbase/ems3.ht... http://adsabs.harvard.edu/abs/2007ApJ...658L..33A